Top 3 bài Phân tích bài thơ Thương vợ hay nhất – Ngữ văn lớp 11

Đề bài: Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

“Văn chương nằm ngoài quy luật băng hoại. Một mình nó không thừa nhận cái chết. Thơ Tú Xương là một trong những trường hợp như vậy. Thân mình hơn 100 năm đã hòa tan làm một với đất nước, nhưng sự nghiệp văn chương của người tài hoa ấy vẫn không ngừng lay động lòng người, bất chấp mọi thử thách của thời gian. Nhắc đến Tú Xương ta không thể không nhắc đến “Thương vợ”, một bài thơ trữ tình với nụ cười hóm hỉnh, vừa tự giễu vừa thể hiện tình yêu, sự kính trọng đối với người vợ đã tận tụy hy sinh hết mực. một đời vì chồng, vì con, vì gia đình.

Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ là bà Phạm Thị Mận. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết, ông là một trí thức phong kiến ​​kiểu nhà Nho “Lưng dài đắt giá” phải nương nhờ vào vợ. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một mình bà Tú cáng đáng. Điều đó đã đi vào thơ văn của ông “Tiền trao cho đàn bà kiếm” hay “Hỏi ông quan ai lấy lương vợ”. Trong bài thơ Thương vợ cũng vẫn là những vấn đề đó được thể hiện sâu sắc qua tám câu thơ bảy câu và tám câu Đường luật.

Hai câu kết mở ra một không gian, thời gian và công việc của bà Tú. Một công việc vất vả, gian nan và vô cùng gian khổ:

“Quanh năm buôn bán trên dòng sông mẹ

Nuôi năm đứa con với một chồng”

Nghề kinh doanh theo quan niệm của người xưa là con đường làm giàu đầu tiên. “Không buôn bán thì không giàu” nhưng việc làm của bà Tú thì hoàn toàn ngược lại. Địa điểm buôn bán ở đây không phải là bãi đất tốt, bằng phẳng mà ở “mom sông”. Theo cách hiểu của Xuân Diệu: “là nơi bấp bênh, không ở bến sông tấp nập thường ngày”. “Mom sông” đã cụ thể hóa địa điểm kinh doanh của bà Tú_ nơi “đầu sóng ngọn gió”, đối mặt với muôn vàn hiểm nguy khi nước xuống, nước lên, nước lên. Thời gian ở đây là “quanh năm” ngày này qua ngày khác. Thời gian dài không bao giờ nghỉ ngơi. Một công việc nặng nhọc, vất vả mà người vợ phải gánh vác để chăm sóc gia đình.

Xưa nay với quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết nên” những việc lớn như kinh tế gia đình đều phải do đàn ông gánh vác, mà người chịu trách nhiệm đó ở đây chính là Bà Một người phụ nữ đảm đang, đảm đang có thể “một chồng nuôi năm con”. Đủ ở đây để đủ miếng cơm manh áo. Một người đi làm và ăn với bảy miệng ăn khiến tôi thấy trách nhiệm nặng nề đặt lên vai người phụ nữ gia đình. Trong câu thơ này, nghệ thuật đối xử với năm người con được dùng ở số nhiều, nhưng lại được đặt ngang hàng nên đối với người chồng là số ít. Đủ ăn đủ mặc cho năm đứa con bằng số tiền nuôi một ông chồng. Như chúng ta đã biết, cuộc đời ông Tú ngắn ngủi và bình dị 37 năm, dường như chỉ gói gọn trong ba việc chính: đi học, đi thi và làm thơ. Năm 15 tuổi bà bắt đầu đi thi, 22 năm còn lại bà vẫn đi thi, mỗi lần vào trường trải tám màn lều bạt, bao nhiêu tiền của, chi tiêu đều một tay bà Tú lo liệu. .

Xem thêm bài viết hay:  Bài văn suy nghĩ của em về văn hóa cảm ơn hay nhất

Khép lại hai câu miêu tả không gian, thời gian và công việc của bà Tú để đến hai câu thực mở ra một hình ảnh “thân cò”:

“Nuốt xác cò nơi vắng

Nước trên mặt thuyền rất đông”

Câu thơ gợi cho ta hình ảnh quen thuộc trong văn học dân gian: “Con cò lội qua bờ sông/ Gánh gạo cho chồng tiếng khóc khe khẽ”. Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam sớm hôm cần cù chăm lo cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò một thân một số phận cụ thể gợi lên một sự mong manh, bé nhỏ trước cuộc đời. Tác giả sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” làm cho hình ảnh ấy trở nên cụ thể và sâu sắc hơn.

Hẳn bà Tú cũng không quên lời dặn của người xưa “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua đò đầy”, nhưng vì cơm áo, manh áo của gia đình mà bà phải liều lĩnh xông pha vào chốn hiểm nguy. rồi phải “nuốt” vào chỗ. đò chật chội”. Hai tính từ đầu và cuối câu đối lập nhau vừa gợi hình vừa gợi cảm. Dường như nhà thơ rất thông cảm, thương xót cho thân phận của vợ nhưng dường như bà lại rơi nước mắt trước hình ảnh ấy .Đây có thể coi là hai câu thơ hay nhất trong bài thơ cũng như lay động lòng người nhất khi tái hiện hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương.

Xem thêm bài viết hay:  Fob là gì? Công thức tính Fob

Nếu như ở bốn câu đầu tác giả với tư cách, vai trò người chồng đứng ngoài “khách quan” để quan sát, nhận xét và đồng cảm với bà Tú, thì bốn câu sau Tú Xương lại lọt vào vòng trong. tâm tư, tình cảm của người vợ để lên tiếng phàn nàn “chủ quan” và đúng hơn.

Hai bài văn là lời than thở mà Tú Xương nói thay cho nỗi lòng của vợ:

“Một số phận, hai khoản nợ, số phận”

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Từ “mệnh” theo nghĩa Hán Việt có nghĩa là cái duyên làm nảy sinh một việc gì đó. Theo quan niệm của Phật giáo, phận trời cho con người gặp nhau, có thể yêu nhau và trở thành vợ thành chồng, giúp những đôi lứa yêu nhau gắn kết hơn trong cuộc sống. “Tu trăm năm tu hành, nghìn năm tu hành sẽ chung chăn gối” dân gian hình thành nên một cặp duyên nợ. Theo quan điểm của Tú Xương, duyên nợ chỉ có một mà có đến hai. Nghĩ cho kỹ bà Tú lấy ông Tú cũng là một cái duyên, nhưng với người chồng “hờ hững” ấy, bà mắc nợ nhiều hơn. Bởi thế mà sự vất vả của một người đã được nâng lên thành vận mệnh của cả một đời người. Bởi nó là duyên nợ, là “định mệnh”. Âu có nghĩa là chịu đựng, là chấp nhận. Vì phải chịu đựng và chấp nhận rằng, “năm nắng mười mưa nào dám quản công”. Số từ theo thứ tự: một, hai, năm, mười được sắp xếp tăng dần thể hiện sự khó khăn chồng chất lên vai bà Tú. “Ấu phải phận” và “dám quản công” được đặt ở cuối mỗi câu thơ thể hiện cách ứng xử của một người vợ luôn nhẫn nhịn, chịu đựng tất cả vì chồng con.

Khép lại bài thơ, hai câu kết được nâng lên thành lời chửi rủa. Nghe giọng bà Tú, Tú Xương nguyền rủa sự vô liêm sỉ của bố mẹ chồng và sự vô dụng của chính mình đối với vợ.

“Cha mẹ sống một đời bạc

Có chồng vô tâm hay không”

Xưa nay, mẹ chồng thường là “nỗi kinh hoàng” của các nàng dâu, bởi quan niệm phong kiến ​​về hôn nhân cho phép người ta “mua” vợ cho con chẳng khác nào mua người đi làm thuê nhưng đối xử tệ bạc. con dâu. Chúng ta đã từng thấy những câu chửi nhẹ nhàng mà thâm thúy ấy trong những câu ca dao như: “Tiếng đồn cha mẹ mày hiền/ Cắn ​​cơm chẳng bẻ, cắn tiền bẻ đôi” hay “Trách mẹ cha/ Cầm cân chẳng chịu”. biết nó là “vàng hay đồng”. Tú Xương không chỉ là nhà thơ trữ tình mà còn là nhà văn trào phúng nổi tiếng. Thơ ông không chỉ là những lời chửi rủa bọn quan lại phong kiến ​​ngu dốt mà còn là những bài thơ tự trào. Trong đoạn thơ trên, nhà thơ mượn lời vợ để chửi mình là người chồng “hờ”, vô dụng, không nuôi được vợ mà ngược lại còn chất gánh nặng cuộc đời lên vai. của nhà hiền triết. Nhà thơ tự cho mình là kẻ xấu cũng là một cách ca ngợi, tôn vinh vợ theo một cách chưa từng thấy trong thơ ca trung đại: “Vuốt râu nịnh vợ, con anh táng/ Cau mày đời anh ” . Nét đặc sắc của hai câu kết bài là tiếng chửi nhưng vẫn mang ý giễu cợt, giễu cợt, tự trách nhưng vẫn là để bày tỏ sự đồng cảm với vợ.

Xem thêm bài viết hay:  Suy nghĩ về quan niệm: Trước hết là phải sống cho mình hay nhất

Tú Xương và Nguyễn Khuyến là hai đại diện cuối cùng của văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỷ 19, là hai nhà thơ tiêu biểu và độc đáo cho thể thơ tự trào. Thơ ông với những cách tân mới về ngôn ngữ viết theo xu hướng khẩu ngữ, sử dụng ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn đảm bảo giọng điệu trữ tình và sức gợi, gợi cảm. “Thương vợ” là một bài thơ hay, có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ bác học một cách tinh tế, phong phú khắc họa chân dung bà Tú và bộc lộ tâm trạng, tình cảm của ông Tú. xương cho vợ. Cùng với đó, nhịp thơ truyền thống trong thơ Đường luật là 4/3 và 2/2/3 khiến lời thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển.

Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương thể hiện tình cảm sâu nặng, tình cảm chân thành của nhà thơ dành cho cha mình. Trước Tú Xương, hiếm có nhà thơ nào có những bài thơ viết về vợ hay và sâu sắc như ông. Đoạn thơ không chỉ thể hiện tâm hồn rộng mở, nhân hậu của nhà thơ đối với vợ mà còn thể hiện tài năng, bút pháp của một nhà thơ biết vận dụng sáng tạo ngôn ngữ dân gian.

Xem thêm các bài văn mẫu về phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 11:

thuong-vo.jsp

Các bộ đề lớp 11 khác

Viết một bình luận