Đề bài: Có ý kiến cho rằng truyện ngắn “Người lãnh đạo” là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao. Hãy giải thích và hỗ trợ các tuyên bố trên.
Từ khi viết tác phẩm đầu tay (1936) cho đến khi lên đường hành sự (1951), Nam Cao cầm bút vỏn vẹn 15 năm. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, ông đã làm nên sự nghiệp văn chương cả đời. Người ta coi ông là nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà văn hàng đầu của Việt Nam thế kỷ XX.
Nhiều tác phẩm của ông vẫn còn sống cho đến ngày nay. Nhiều nhân vật của ông vẫn còn sống cho đến ngày nay. Tạo ra những trang văn như thế chứng tỏ ngòi bút Nam Cao có sức sống mãnh liệt. Đó là ngòi bút của một nhà văn có quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn.
Nam Cao không viết ra hệ thống quản lý tư tưởng nghệ thuật của mình. Nhưng tư tưởng ấy lại được thể hiện khá rõ nét trong nhiều tác phẩm của ông, đặc biệt là trong truyện ngắn “Lãnh đạo”. Vì vậy, nhiều người coi “Lãnh đạo” là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao.
Đọc “Truyền thuyết về đời” của Nam Gào người đọc có thể tìm thấy nhiều quan niệm nghệ thuật sâu sắc ẩn chứa trong đó.
Đầu tiên là quan niệm của ông về nghệ thuật sống. Anh cho rằng nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống.
Trước đó, trong truyện ngắn “Trăng sáng”, ông đã phê phán nghệ thuật trốn đời. Theo anh, nghệ thuật mà không đi ra từ những mảnh đời bất hạnh, đau thương thì chỉ là “ánh trăng lừa dối”. Ông tin rằng nghệ thuật phải mô tả cuộc sống một cách trung thực.
Trong “Đời thường”, ông phê phán thứ văn chương chỉ lột tả được cái bề nổi của xã hội. Ông để nhân vật Hộ trong truyện ngắn này đánh giá rằng cuốn Đường về của Quyên chỉ là một cuốn tầm thường, chỉ có giá trị cục bộ, vì nó chỉ mô tả bề nổi. Thuộc về xã hội.
Vì vậy, trong “Trăng sáng”, ông phê phán văn chương thoát ly, còn trong “Lãnh đạo” ông phê phán văn học miêu tả hời hợt. Trước sau như một, ông luôn khẳng định văn chương phải gắn bó với đời sống, phản ánh chiều sâu của đời sống.
Từ đó, ông cho rằng một tác phẩm có giá trị phải là tác phẩm thể hiện được “những rung động của cuộc đời”. Hơn nữa, một tác phẩm có giá trị đích thực là tác phẩm “vượt qua mọi ranh giới và giới hạn, phải là tác phẩm chung của toàn nhân loại. Nó phải chứa đựng một điều gì đó vĩ đại, mạnh mẽ, vừa đau đớn vừa phấn khởi… Nó tôn vinh lòng nhân từ, bác ái, công lý.. . Nó mang mọi người lại gần nhau hơn”.
Giá trị của văn học là ý nghĩa của nó đối với cuộc sống. Văn học chỉ có giá trị khi nó vượt qua mọi ranh giới và giới hạn, khi nó là của chung nhân loại. Nó phải có giá trị nhân văn.
Hơn nữa, văn học có giá trị khi nó tác động mạnh mẽ đến con người và cuộc sống: chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn vừa hào hứng. Nó làm cho người gần người hơn.
Giá trị của văn học còn là ý nghĩa của con người mà nó mang lại cho thế giới khi nó ca ngợi lòng nhân ái, bác ái và công lý.
Những lời nói tưởng như bốc đồng của nhân vật Hộ giữa những người bạn hóa ra lại là những nhận định nghệ thuật sâu sắc, tiến bộ của Nam Cao. Hầu như ông nói về những điều cơ bản nhất, quan trọng nhất làm nên giá trị đích thực của văn học. Khái niệm của ông rất gần với khái niệm chúng ta có ngày nay.
Nhưng Nam Cao không chỉ nêu ý nghĩa của văn học đối với cuộc đời mà ông còn đề cập khá sâu sắc đến nghề văn và sự sáng tạo trong văn chương.
Ông tin rằng viết lách là một nghề cao quý. Nghề văn đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm, trách nhiệm. Nam Cao cho rằng cẩu thả trong bất cứ ngành nghề nào cũng đáng khinh, nhưng cẩu thả trong văn chương là điều đáng khinh. Nhân vật đã phải cảm thấy đau đớn, xót xa và dằn vặt khi phải in vội một cuốn sách viết vội, khi phải viết “bài cho thiên hạ đọc rồi người về”. Anh mắng tôi, chửi tôi như một con đĩ.
Mặt khác, Nam Cao cũng cho rằng viết văn cũng là một nghề sáng tạo. Ông viết: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo những khuôn mẫu nhất định trao cho. Văn chương chỉ thu nhận những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi nguồn, sáng tạo những cái mình muốn mà chưa được”.
Theo Nam Cao, nghề văn không phải là nghề của những người thợ giỏi làm theo những khuôn mẫu có sẵn. Bởi dù có “khéo léo” đến đâu nếu cứ làm theo những “khuôn mẫu có sẵn” thì cũng không còn sự sáng tạo mà chỉ tạo nên những trang văn nhạt nhòa, thiếu sức sống.
Nhận thức này của Nam Cao có lẽ phần nào có sự suy ngẫm của chính ông về những năm tháng đầu đời cầm bút. Thời gian này, Nam Cao viết nhiều thơ, truyện ngắn theo lối rập khuôn của văn học đương đại, nhưng rồi ông nhận thấy những tác phẩm ấy thiếu hơi thở của một cuộc sống nhạt nhòa, thiếu sức sống vì chưa thoát ra được cái tài tình. tay, chưa vượt qua “mẫu dựng sẵn”. Ông chuyển sang chủ nghĩa hiện thực. Và từ đây, những trang viết của anh mang hơi ấm và hơi thở của cuộc sống. Ông nhận ra rằng, văn chương không thể rập khuôn, càng không thể “thấy người ta ăn khoai ta cũng vác mai đi đào”.
Từ nhận thức đó, ông khẳng định, văn chương chỉ chứa những người biết đào sâu, biết tìm tòi, biết sáng tạo. Nhà văn phải là người khám phá những nét bản chất của cuộc sống trong chiều sâu của nó chứ không chỉ nhìn bề ngoài.
Đó không chỉ là quan niệm mà đã trở thành trăn trở trong suốt cuộc đời cầm bút của ông. Dường như mỗi trang viết của anh đều lấp lánh sự sáng tạo.
Cũng như nhiều nhà văn cùng thời, ngòi bút của Nam Cao thường hướng về số phận của những con người trong cảnh nghèo khổ. Cũng như bao nhà văn khác, ông nhận được nhiều xót xa, chua xót trước thân phận con người. Nhưng có lẽ ít ai thấy nỗi đau tinh thần của con người thấm thía như ông. Anh nhận ra nỗi đau không được làm người trên gương mặt của một con quỷ như Chí Phèo, anh nhận ra nỗi đau trong giọt nước mắt khóc thương con chó của lão Hạc biết bao nhiêu. Anh nhìn vào một bữa ăn. Nỗi đau được cô đọng lại thành giọt nước mắt trên những trang viết của anh.
Hay trong nghệ thuật viết truyện của ông, ta cũng thấy biết bao sáng tạo. Anh ít chọn truyện có cốt truyện như thường lệ mà chọn truyện không có cốt truyện để đưa ra những đoạn độc thoại nội tâm, những phân tích tâm lý đặc sắc, tạo phong cách riêng. viết. Có thể nói, ở đây chúng ta cũng có thể bắt gặp những sáng tạo như vậy trong các tác phẩm của Nam Cao.
Từ đây có thể nói, “Người lãnh đạo” không chỉ là một truyện ngắn mà còn là một tuyên ngôn nghệ thuật. Bản tuyên ngôn nghệ thuật của một nhà văn coi văn chương là lẽ sống, coi nghề văn là một nghề cao quý của một người có phẩm cách và trách nhiệm.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 luyện thi THPT Quốc gia:
doi-lose.jsp
Các bộ đề lớp 12 khác