Bình giảng một vài bài thơ Hai-cư của Ba-số hay nhất – Ngữ văn lớp 10

Đề bài: Cảm nhận một số bài thơ Haiku của Basô

Bài giảng: Thơ Haiku của Ba Nên – Cô Trương Khánh Linh (GV )

Baso (1644 – 1694) là nhà thơ cổ điển vĩ đại nhất của Nhật Bản. Thơ Haiku của ông là những bức tranh xinh xắn, chỉ theo ba nét phác họa về cảnh, vật, người… mà đầy rung động, ấn tượng.

Mỗi bài thơ Haiku là một nét tâm hồn Baso.

Xứ sở mười mùa sương giá

trở về nhà để nhìn lại

Edo là quê hương của tổ tiên.

Baso đến từ Iga, thuộc tỉnh Mie ngày nay. Từ 30 đến 40 tuổi, ông sống ở Edo (nay là Tokyo). “Mười mùa sương” là mười mùa thu, cũng là mười năm, là tín hiệu của “tiếng quý”. Bài thơ này ông viết năm 1684, năm đó ông 40 tuổi; ông sống ở “xứ lạ mười mùa sương”. Edo đã trở thành quê hương thứ hai của ông và đã lưu giữ trong lòng ông biết bao kỷ niệm của tuổi trung niên, khi ông đam mê văn chương, và khi tài năng của ông đang nở rộ. Năm 1684, mẹ ông qua đời, ông trở lại thăm Iga, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Nhưng lạ thay:

“Về nhà / nhìn lại

Edo là quê hương của tổ tiên.”

“Nhìn lại” Edo đã mất; Tôi nhớ Edo như nhớ quê hương. Đoàn Lê Giang viết: Bốn bài thơ này có lẽ chịu ảnh hưởng của bài thơ Đỗ Tăng Tán, nhà thơ Giả Đạo đời Đường.

“Tinh Châu là đất khách mười hè.

Sáng sớm Hàm Dương nhớ quê

Qua bến Tang Can, Vô Tích,

Tinh Châu đã biến thành quê hương.

(Qua sông Tang Cẩn – Tản Đà dịch)

Nguyên văn: “Thời Sương”, nghĩa là 10 mùa thu. Tản Đà dịch ra là “đãi mười mùa hạ” để gieo vần. Tiêu Dao quê ở Hàm Dương, nhưng lưu lạc ở Tinh Châu đã 10 năm, về thăm quê, vừa qua sông Tang Cẩn, nhìn lại Tinh Châu, lòng bồi hồi nhớ về Tinh. Châu như nhớ quê hương da diết.

Xem thêm bài viết hay:  Dàn ý Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa (30 bài văn mẫu) - Ngữ văn lớp 9

Giả Đạo sống ở thế kỷ thứ IX, Bá Sở sống ở thế kỷ XVII, nhưng bốn tấm lụa và các chi tiết: mười thu, ngoảnh lại (từ chối) đều giống nhau. Giả Đạo về thăm Hàm Dương nhớ Tinh Châu; Khi Baso trở lại thăm Igar, anh nhớ đến Edo. Tình yêu con người, yêu đất nước, yêu xứ lạ, những nét tâm lí của hai nhà thơ đều đẹp.

*Bài 3

Bài thơ này do Baso làm năm 1684:

“Nước mắt nóng hổi

tan trong tay tóc mẹ

sương thu”

Năm đó, Baso 40 tuổi. Khi mẹ mất, người con về thăm mộ mẹ, thăm gia đình, quê hương. Người anh trao cho anh di vật còn sót lại là mái tóc hoa râm của mẹ anh. Có hai chi tiết nghệ thuật rất giàu sức gợi là “Giọt nước mắt nóng hổi” và “Tóc mẹ – sương thu”. Tóc mẹ bạc trắng như sương thu; Giọt sương trong bài thơ hai ngôi này vừa là một câu tứ tuyệt, vừa là một ẩn dụ. Hình ảnh người mẹ hiền chỉ còn lại mái tóc nhưng lòng mẹ, tình mẹ thì bao la, người con không bao giờ quên. Nắm mái tóc bạc – di \dit của tôi. người con đã không cầm được nước mắt: “Nước mắt nóng hổi – tan trên tay/tóc mẹ”. Mái tóc bạc của mẹ ướt đẫm nước mắt của con.

Đây là bài thơ song thất lục bát của Basô viết về tình mẹ – một trong những tình cảm nhân văn cao đẹp nhất đã lay động lòng mỗi chúng ta. Cái hay của bài thơ là sự cô đọng, cảm xúc tưởng chừng như bị dồn nén, như lắng lại trong sâu thẳm tâm hồn.

Xem thêm bài viết hay:  Tả cánh đồng lúa (Dàn ý - 10 mẫu) - Tập làm văn lớp 5

*Bài 5

Năm 1690, Baso tròn 46 tuổi, năm đó ông đang đi du ngoạn. Bài thơ được viết ở Shirouma. Ở câu thơ đầu, chữ “đồng” là một “quý ngữ”. Tôi khẽ đọc bài thơ:

“Mưa đông đầy trời

lời chúc khỉ con

có áo.”

Bài thơ có ba hình ảnh – biểu tượng: mưa đông, chú khỉ con thầm ước, chiếc áo.

Mùa đông ở Nhật rất lạnh. Núi Phú Sĩ phủ đầy tuyết. Vào những ngày mưa, thời tiết trở nên lạnh hơn. Hình ảnh “mưa đông đầy trời” tượng trưng cho mọi khó khăn, gian khổ.

“Một con khỉ đơn độc” tượng trưng cho một thân phận “nhỏ bé” đói khát, lẻ loi, lẻ loi giữa cuộc đời. Chú khỉ đang phải sống trong cảnh đói rét, không chốn dung thân khi “mưa đông giăng đầy trời”.

Thương chú khỉ cô đơn, lạnh lẽo, khốn khổ, nhà thơ chỉ có một mong ước nhỏ nhoi, rất đẹp, chan chứa tình người:

“có áo”

Cái ao cho tôi khi ở trong cảnh mưa gió lạnh lùng là cái chăn. Tôi có thể thấy cái lạnh. nỗi cô đơn, khát khao của loài khỉ, kiếp người nhỏ bé chịu đói rét, và đó cũng chính là nỗi lòng của Basô. Hạnh phúc là sẻ chia. Trái tim nhà thơ xao xuyến về ước mơ hạnh phúc của đồng loại, của một loài vật nhỏ bé mới đẹp làm sao!

Bài thơ có hình ảnh động. Ngôn ngữ thơ cô đọng gợi cho ta nhiều liên tưởng. Cái tình lan tỏa bài thơ tạo nên một giá trị nhân văn cho thơ.

*Bài 8

Đoàn Lê Giang, người dịch thơ Haiku Nhật Bản, cho biết bài thơ sau đây được Baso viết trước khi qua đời. Đây có thể coi là bài ca tạ ơn của nhà thơ nổi tiếng:

Xem thêm bài viết hay:  Tả cái gương nhà em (Dàn ý - 2 mẫu) - Tập làm văn lớp 5

“Nằm bệnh giữa giang hồ

Kẻ mộng mơ vẫn lang thang

cánh đồng hoang vắng”.

Cuộc lang thang của Ba Số kéo dài mười năm. Ông nằm trên giường bệnh và trút hơi thở cuối cùng vào năm 1694 tại tỉnh Osaka, năm đó nhà thơ 50 tuổi.

Cuộc lang thang phải dừng lại vì bệnh tật, nhưng “mộng vẫn trôi”. Câu thơ thứ hai thể hiện khát vọng được sống và được phiêu bạt. Với Baso, “thơ là một cuộc hành trình”. Ngay cả khi bạn chết, linh hồn của bạn vẫn tiếp tục du hành. Du lịch để sống cùng vẻ đẹp trong thiên nhiên, trên khắp đất nước “Mặt trời mọc”. Nếu bạn có một tình yêu tha thiết và mãnh liệt với cuộc sống, bạn sẽ có một điều ước kỳ diệu mà sau khi đã sang thế giới bên kia, bạn vẫn hằng khao khát: “mộng trôi”.

Câu cuối của bài thơ vừa là không gian nghệ thuật, vừa là “quý ngữ”:

“cánh đồng hoang”.

Sau vụ mùa, đến mùa thu hoạch, những cánh đồng phủ đầy tuyết trắng. Đây là những “cánh đồng hoang” giữa mùa đông tuyết phủ. Bài thơ buồn. Không gian bao la, tĩnh mịch, huyền bí. “Giấc mơ còn lang thang” trong sự cô đơn, hoang vu và lạnh lẽo.

Buồn bã và bối rối là cảm xúc của mỗi chúng ta khi đọc nhẹ nhàng bài thơ “chết người” của Basô.

Xem thêm các bài văn mẫu phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 10:

Các bài giải bài tập lớp 10 sách mới:

tho-hai-cua-ba-so.jsp

Giải bài tập lớp 10 theo sách mới môn học

Viết một bình luận