Bình giảng bài thơ Nhớ cảnh Hàm Rồng của Tản Đà

Đề bài: Bình giảng bài thơ Nhớ cảnh Hàm Rồng của Tản Đà.

Trong bài “Thú chơi”, Tản Đà viết:

“Bao thơ đẹp suốt ba mùa,

Rừng biển vắng gió trăng mới là lạ.”

Nhà thơ đã từng lên rừng xuống biển, vào Nam ra Bắc, chung sống hạnh phúc. “Nước non chở đi hầu khắp nơi”. Có lúc “Chơi Hòa Bình”, “Chơi Chùa Hương Tích”. Một hôm ra Hòn Gai thưởng thức tiết canh, về Đồng Sành, Hải Phòng ăn đặc sản cá đối, cho thêm nếm đời và tục ngữ: “Bán đầu ruộng ăn đầu cá đối”. . Khi tôi vượt Hoành Sơn “chơi Huế”, tận Sài Gòn, Chợ Lớn cưỡi song mã, nếm mùi vị cá tra, uống chén trà Nhất Thiền. Nơi nào có cảnh đẹp, lần sau ông đến thăm, có bài thơ:

“Trăm năm hai chữ Tản Đà,

Sông và núi vẫn là trò giải trí.”

Riêng về Hàm Rồng tỉnh Thanh Hóa, Tản Đà có hai bài thơ lục bát. Bài đầu tiên “Qua cầu Hàm Rồng bắt bút” đăng trên “An Nam tạp chí” số 33 năm 1932. Một bài thơ tình “tương lai” kèm theo:

“Ngày xưa chơi ở Dương Quỳ,

Ngựa trắng bạch, rừng xanh xanh.

Hàm Rồng nay đi qua xứ Thanh,

Dưới cầu nước trong xanh in bóng người thơ.

Đâu là sương và tuyết trên trần nhà,

Nước non xanh biếc bao đời xưa…”.

“Nhớ cảnh Hàm Rồng” là bài thơ thứ hai cũng đăng trên “An Nam tạp chí” năm 1933, gồm 23 khổ thơ. Đoạn thơ nói lên nỗi nhớ Hàm Rồng.

Bốn câu đầu diễn tả nỗi nhớ “ai xui”. Ở Sơn Tây xa mà nhớ. “Muốn xem mà không thấy” mà nhớ. Có yêu nhiều, thương nhiều, lưu luyến lắm mới có nỗi nhớ ấy:

Xem thêm bài viết hay:  Top 3 bài phân tích, cảm nghĩ bài thơ Phò giá về kinh hay nhất - Văn mẫu lớp 7

“Ai làm em nhớ Hàm Rồng,

Muốn thấy không được sáng suốt.

Từ tôi về Sơn Tây

Đường Nam Bắc mấy ngày đường.

Giọng thơ nhẹ nhàng, man mác, chơi vơi. Hàm Rồng đối xử với Tản Đà như một người tình xa cách, như một cố nhân xa xứ để lại bao nỗi nhớ thương, bao nhiêu thương nhớ.

Khổ thơ thứ hai có 12 câu diễn tả cụ thể bao nhiêu nỗi nhớ, bao nhiêu mong ước. Hàng loạt hình ảnh tả cảnh Hàm Rồng hiện lên trong tâm trí Tản Đà. Đó là màu sơn “đỏ” của cầu, màu “xanh” của núi (Ngọc Sơn), là “chiều dài” là “chiều sâu” của dòng sông Mã hùng vĩ. Đó là cảnh tấp nập “đúc” của những chiếc thuyền đánh cá. Là hình bóng đoàn tàu Bắc Nam xuôi ngược trên cầu:

“Bóng sơn đỏ chưa phai?

Con xanh non, sông dài còn sâu?

Và đoàn thuyền buông câu

Và tàu chạy trên cầu như trước.”

Bốn câu hỏi tu từ nối tiếp nhau, kết hợp với các phép láy: “còn đỏ”, “còn ngược”, “còn sâu”, “còn đoàn thuyền đánh cá…”, “còn tàu chạy…” được gợi lên một cách nồng nàn, đọng lại nhiều day dứt và day dứt. trăn trở cho cảnh sắc Hàm Rồng biết nói cùng ai. Khung cảnh Hàm Rồng đã in sâu vào tâm hồn kẻ lãng du. Khung cảnh Hàm Rồng đã trở thành mảnh ghép tâm hồn của người tài tử si tình. Vì nhớ và yêu nhiều nên tôi mới có tâm trạng và cảm giác đó.

Thương nhớ đong đầy, biết hỏi ai, biết hỏi ai, biết “lấy ai” về xứ Thanh mà “thăm cảnh”. Nhà thơ tự hỏi, trong bao năm xa cách, không biết cảnh Hàm Rồng “đợi” để “cùng nhau” tâm sự thì Hàm Rồng được nhân cách hóa như một người tình, một cố nhân với tình sâu nặng:

Xem thêm bài viết hay:  2 bài văn mẫu Phân tích cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng hay nhất - Ngữ văn lớp 11

“Đi thăm ai bây giờ

Thật tuyệt khi thấy họ chờ đợi cùng nhau!”

Tôi chỉ biết thổ lộ ước nguyện, “ước gì” cảnh Hàm Rồng không đổi thay trong dòng chảy thời gian, trong bể dâu của cuộc đời. Sông Mã “còn sâu”. Núi Ngọc Sơn “vẫn xanh”. Cầu Hàm Rồng “vẫn như một bức tranh” trường tồn mãi mãi. Cuộc sống vẫn hối hả. Trên cầu, dưới sông, nhịp sống vẫn rộn ràng tươi trẻ:

“Chiếc cầu vẫn như một bức tranh

Tàu cứ chạy, khách bộ hành cứ đi.

Mùa xuân, cỏ vẫn xanh,

Con thuyền đánh cá chỉ quăng chì”.

Điệp từ “chỉ” được lặp lại 7 lần nhấn mạnh lời nguyện cầu cho cảnh Hàm Rồng vững bền: hữu tình, tươi đẹp, thơ mộng. Có yêu mến Hàm Rồng nồng nàn, sâu nặng mới có ước nguyện ấy.

Bảy dòng cuối của bài thơ là lời hẹn ước và sự đoàn tụ. Hẹn với Hàm Rồng, nhắn nhủ Hàm Rồng “chờ em”, hãy “giữ phong cảnh”. Thần Núi, Thần Sông “hay như nhau” có thể hiểu là hoài cổ. Một bài thơ lãng mạn bay bổng:

“Sơn Tinh, Hà Bá hay giống nhau?

Giữ phong cảnh Hàm Rồng đợi ta!”

Chỉ có những nhà thơ đa tài, từng được “tề Chúa”, đọc thơ chầu trời, tiên nữ mới có thể gieo vần, tứ tuyệt độc đáo như vậy. Một tình yêu trung thành, kiên định: “Một hôm tàu ​​chạy qua – Trên xe có Tản Đà đứng”. Các từ láy: “lại vâng”, “lại mừng”, “tương phùng” khẳng định niềm tin của lời hẹn ước.

Khép lại bài thơ lục bát là một câu thơ. Từ “điệp” được lặp lại 3 lần. Cố tình biết hướng về núi non, sông nước, cây cầu, là những cảnh xưa ân tình xưa đã từng “thương nhớ, xót xa ai” (Ca dao):

Xem thêm bài viết hay:  50+ mẫu Cảm nghĩ về nhân vật Phương Định trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi | Văn mẫu lớp 9

“Lời nói trẻ, văn nước, văn yêu cầu.”

Tình cảm nhớ thương đè nén trong lòng bấy lâu nay bỗng rung lên và thốt lên.

“Nhớ cảnh Hàm Rồng” diễn tả nhiều cảm xúc trữ tình của tình yêu, nỗi nhớ, những hứa hẹn dạt dào trong tâm hồn của những khách giang hồ, tài tử phong lưu, đa tình. Nhớ về Hàm Rồng là nhớ về xứ Thanh với tất cả tình yêu quê hương đất nước.

Thể thơ lục bát này, từ giọng điệu của từ ngữ, hình ảnh đến cách thể hiện nỗi nhớ, mong, thương đều thể hiện một phong cách nghệ thuật độc đáo và điêu luyện. Đại từ nhân xưng “ai” chỉ có trong “ai xui”, “ai lấy ai”, “thuyền ai” gợi cả một trời thương nhớ, xót xa. từ “còn” được lặp lại 9 lần; Từ “chỉ” được lặp lại 7 lần diễn tả cảm giác nhớ nhung có lúc dồn nén, có lúc dâng trào, dai dẳng, da diết. Các tiểu đối làm cho câu thơ cân xứng, nhịp nhàng, du dương, tha thiết. Những ca từ trong trẻo, mượt mà: “Muốn thấy / chẳng thấy”, “màu xanh vẫn xanh, sông dài thăm thẳm”, “Tàu cứ chạy / bước chân đi”, “với núi non/ bên sông”, “người cũ/cảnh cũ”, “điệp non/điệp nước/điệp hỏi”.

“Nhớ cảnh Hàm Rồng” là một bài thơ lục bát tuyệt tác, thể hiện tâm hồn thơ lãng mạn, tài hoa, say đắm của thi sĩ Tản Đà. Đó là khúc hát quê hương, chan chứa tình yêu đất nước.

Các bộ đề lớp 12 khác

Viết một bình luận